Lai Châu Kinh Tế - Xã hội năm 2019, Định hướng phát triển năm 2020
UBND tỉnh ban hành báo cáo số387/BC - UBND ngày 27/11/2019 Báo cáo Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo Quốc phòng - An ninh năm 2019, kế hoạch năm 2020.
Năm 2019 diễn ra trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều những biến động khó lường, phức tạp; căng thẳng thương mại giữa các nước lớn; những diễn biến phức tạp trên biển Đông,... có tác động nhiều mặt đến tình hình trong nước và của địa phương. Trong tỉnh, tình hình lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh đã ảnh hưởng đến mọi mặt đời sổng kinh tế, xấ hội, nhất là ngành nông nghiệp và ngành công nghiệp thủy điện như: Dịch tả lợn Châu Phi phát triển trên diện rộng gây nhiều thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp, làm tăng chỉ số giá tiêu dùng; hạn hán cục bộ một số nơi làm thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp; lưu lượng nước về và mực nước tại các hồ thủy điện thấp nhất trong 30 năm đã tác động đến kế hoạch phát điện và tích nước hồ chứa của các nhà máy thủy điện, trực tiếp ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu ngân sách năm 2019 của tỉnh. Nhu cầu đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh còn rất lớn, song nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn chế, giảm so với các năm 2018, trong khi đó khả năng huy động vổn ngoài nhà nước còn nhiều khó khăn.
Song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy, HĐND, cùng với sự nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân các dân tộc, UBND tỉnh, với phương châm “Kỷ cương - trách nhiệm - đoàn kết - sáng tạo - phát triển bền vững” luôn sâu sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ, tình hình kinh tể - xã hội của tỉnh năm 2019 tiếp tục phát triển, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đạt kế hoạch đề ra.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2019 ước đạt 7,5% (đạt KH) cơ cấu kinh tế các ngành, lĩnh vực: nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 15,5%; công nghiệp - xây dựng chiếm 49,2%; dịch vụ và thuế trừ trợ cấp 35,3%. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người ước đạt 36,3 triệu đồng, vượt kế hoạch 1,1 triệu đồng, tăng 3,3 triệu đồng so với năm 2018.
Hầu hết các chỉ tiêu cơ bản đạt tiến độ kế hoạch và một số chỉ tiêu tăng so với năm 2018 như: Bình quân GRDP/người/năm; giá trị xuất khẩu hàng địa phương; tỷ lệ thôn bản có đường xe máy, ô tô đi lại thuận lợi. Kinh tế tiếp tục phát triển tích cực theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao; nông thôn mới tạo được niềm tin hơn trong nhân dân. Nhiều giải pháp quyết liệt nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh, đến nay đã đưa Trung tâm Phục vụ hành chính công đi vào hoạt động từng bước đáp úng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp; công tác vận động, xúc tiến đầu tư có được một sổ kết quả bước đầu, tạo tiền đề tăng trưởng cho các năm tiếp theo; hình ảnh về tỉnh đã được lan toả thường xuyên hơn, nhất là Lễ kỷ niệm 110 nãm thành lập tỉnh, 70 năm thành lập Đảng bộ tỉnh và đón nhận Huân chương Độc lập hạng nhất.
Chất lượng giáo dục được nâng lên; công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, phòng chống dịch bệnh được được quan tâm thực hiện; nhiều hoạt động về văn hoá tinh thần hướng đến đồng bào khó khăn được quan tâm, đặc biệt là trong dịp tết cổ truyền, tạo không khí vui tươi phấn khởi cho Nhân dân; các chính sách an sinh xã hội được đảm bảo.
Quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, giữ vững, nắm chắc tình hình, không để xảy ra các sự việc nổi cộm; tiếp tục xây dựng đường biên giới hoà bình, hợp tác và phát triển.
Để có được những thành tựu nêu trên, có thể thấy được là do bám sát, thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Tỉnh uỷ, nhất là Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, sự giám sát, vào cuộc của Hội đồng nhân dân tỉnh cũng như hỗ trợ của cả hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc.
Những hạn chế cần chỉ ra:
Một số chỉ tiêu dự kiến không đạt kế hoạch như: Diện tích chè trồng mới, số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Tiến độ triển khai thực hiện và giải ngân nguồn vốn đầu tư công nhìn chung vẫn còn chậm so với yêu cầu. Công tác quản lý đầu tư của các chủ đầu tư vẫn còn tồn tại, đã được các cơ quan Thanh tra, Kiểm toán Nhà nước chỉ ra như: nghiệm thu, quyết toán, giải ngân, thu hồi tạm ứng quá hạn, chất lượng. Công tác quản lý ngân sách ở một số nơi còn chưa chặt chẽ.
Việc giải quyết các khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp, dự án đầu tư đã được quan tâm chỉ đạo sát sao, song một số việc vẫn còn chậm, chưa đáp ứng kỳ vọng của Doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Tình hình an ninh trật tự, quản lý biên giới còn tiềm ẩn phức tạp: Tuyên truyền đạo trái pháp luật; hoạt động của một số loại tội phạm ngày càng tinh vi, manh động hơn;....
Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học ở một sổ địa bàn còn thiếu; hiện còn 345 phòng học tạm, nhiều công trình phụ trợ chưa đảm bảo. Ngành y tế hiện đang thiếu bác sỹ có trình độ chuyên môn cao, nhất là tại các tuyến y tế cơ sở. Tỷ lệ mù chữ người trên 15 tuổi còn cao. Trình độ lao động còn thẩp, đào tạo nghề, giải quyết việc làm đạt về số lượng, tuy nhiên chất lượng chưa cao.
Vấn đề khắc phục hậu quả sau mưa lũ tại các huyện còn nhiều khó khăn do nguồn lực của địa phương còn hạn hẹp, thiên tai lại gây thiệt hại nặng nề trên diện rộng, phá hủy nhiều hệ thống hạ tầng kỹ thuật, sự hỗ trợ của Trung ương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Việc triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra, thực hiện kết luận sau thanh tra, kiểm toán ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn chậm. Tình hình khiếu kiện có giảm về số lượng, số người, số vụ khiếu nại, tố cáo nhưng vẫn còn tiềm ẩn yếu tổ phức tạp.
Định hướng phát triển Năm 2020.
Năm 2020 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm cuối của nhiệm kỳ, kế hoạch 5 năm 2016-2020, là năm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Tiếp tục quán triệt sâu rộng và thực hiện nghiêm túc tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy là “Hành động, kỷ cương, hiệu quả” phấn đấu năm 2020 đạt và vượt các mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII. Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lưọng tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững; xác định cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, khởi nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá.
Các chỉ tiêu chủ yếu
1. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn 7,5%; cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp, thủy sản 15,1%; công nghiệp, xây dựng 50,0%; dịch vụ 34,9%; GRDP bình quân đầu người 40 triệu đồng.
2. Tổng sản lượng lương thực có hạt 220 nghìn tấn; diện tích cây chè 7.565 ha; tỷ lệ che phủ rừng 50,07%; năm 2020 có thêm 4 xã đạt chuẩn tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 40,6%; một huyện hoàn thành nông thôn mới.
3. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 2.150 tỷ đồng.
4. Giá trị xuất khẩu hàng địa phương 15,2 triệu USD.
5. 93,7% bản có đường xe máy, ô tô đi lại thuận lợi; 95,1% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia; 95,5% dân số đô thị được sử dụng nước sạch; 85,2% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
6. Giữ vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia các cấp học: Mầm non: 51,3%, Tiểu học: 60,2%, Trung học cơ sở: 38,5%, Trung học phổ thông: 43,5%.
7. 83,3% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; trên 12 bác sỹ/1 vạn dân; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 15,45%; tỷ lệ giảm sinh bình quân 0,5%; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống 19,97%.
8. Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo chung của toàn tỉnh 3,5%, trong đó các huyện nghèo giảm 5,1%. Giải quyết việc làm mới 7.380 lao động; đào tạo nghề 6.300 lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo 50,7%.
9. 85% hộ gia đình, 70,6% thôn, bản, khu phố, 96% cơ quan, đơn vị, trường học đạt tiêu chuẩn văn hóa.
(Toàn văn báo cáo)
|